Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992: Cần bổ sung quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Quyền đề nghị Tòa án bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp (quyền khởi kiện), việc bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà TANDTC là những nội dung cần được bổ dung, sửa đổi trong hiến pháp mới.

Báo Công lý xin giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Như Bích - nguyên Phó Chánh án TANDTC về những vấn đề này.

Cần bổ sung quyền đề nghị Tòa án bảo vệ...
Về quyền con người, quyền và bổn phận căn bản của công dân (Chương II), cần cân nhắc việc dùng từ “Mọi người” tại một số điều luật quy định về quyền và bổn phận căn bản của công dân: Tại các Điều 16, 17, 21, 22, 23, 25, 31, 33, 34, 37, 43, 44, 46, 50 của Dự thảo đều dùng mực tàu “Mọi người có quyền…” hoặc “Mọi người có bổn phận…”; trong khi đó, tại các Điều 18, 24, 26, 28, 29, 30, 35, 36, 38, 41, 42, 45, 47, 47, 48, 49 của Dự thảo lại dùng mực tàu “Công dân có quyền…” hoặc “Công dân có bổn phận…”. Vậy, việc dùng từ “Công dân” và từ “Mọi người” tại các điều luật nêu trên của Dự thảo có mục đích khác nhau hay không?
Trong văn cảnh mà hai từ này được dùng tại chương II của Dự thảo, thì mục đích dùng hai từ này phải được hiểu là để cùng chỉ một đối tượng công dân, việc dùng từ như vậy trong Dự thảo là không hạp, khi để miêu tả nội dung của một văn bản quy phạm luật pháp, đặc biệt là với Hiến pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia (việc dùng từ như vậy vừa không hợp nhất, lại có thể dẫn đến sự hiểu lầm vì từ “Mọi người” thường được hiểu là được dùng để chỉ về một đối tượng rộng hơn từ “Công dân”). Từ nhận thức này, yêu cầu: Không dùng từ “Mọi người”, mà chỉ dùng hợp nhất một từ “Công dân” tại các điều luật quy định về quyền và bổn phận căn bản của công dân tại chương II của Dự thảo.
Bên cạnh đó, cần quy định bổ sung vào Dự thảo thêm một quyền căn bản của công dân, đó là quyền đề nghị Tòa án bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp của mình (quyền khởi kiện).
hiện, trong bối cảnh quốc gia ta tăng cường hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng tầng lớp chủ nghĩa, các tranh chấp về dân sự, kinh dinh – thương nghiệp, cần lao và các khiếu kiện về hành chính có chiều hướng gia tăng; từ đó, nhu cầu của cá nhân chủ nghĩa, cơ quan, tổ chức trong tầng lớp về việc khởi kiện đề nghị Tòa án bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp của mình càng ngày càng tăng.
Trong khi đó, hiện vẫn còn có những trường hợp cá nhân chủ nghĩa, cơ quan, tổ chức gặp khó khăn khi đề nghị Tòa án bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp của mình (ngành Tòa án quần chúng. # không tổng hợp số liệu cụ thể về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện, nhưng qua tìm hiểu, được biết hàng năm có đến hàng chục nghìn trường hợp Tòa án quần chúng. # các cấp quyết định trả lại đơn khởi kiện). Những trường hợp này xảy ra vì nhiều lý do: có rất nhiều trường hợp do người khởi kiện không đủ điều kiện khởi kiện hoặc không thực hành đúng lớp lang, thủ tục khởi kiện theo quy định của luật pháp về tố tụng; nhưng cũng có nhiều trường hợp do chưa có văn bản chỉ dẫn đầy đủ, dẫn dến sự thiếu hợp nhất trong việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền.
dù rằng tại các văn bản quy phạm luật pháp về tố tụng đã có các điều luật quy định về quyền khởi kiện, trong đó xác định cá nhân chủ nghĩa, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để đề nghị bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp của mình (Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 và Điều 5 Luật Tố tụng hành chính năm 2010); nhưng ngành Tòa án quần chúng. # chưa có văn bản chỉ dẫn đầy đủ, cụ thể, và hợp nhất về thủ tục và nhất là về điều kiện khởi kiện (khoản 1 Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004) dẫn đến việc quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án các cấp còn thiếu hợp nhất.
vì thế, chúng tôi yêu cầu: Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần có quy định thêm một quyền căn bản của công dân, là công dân có quyền đề nghị Tòa án bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp của mình; để từ đó, Tòa án quần chúng. # các cấp và các cơ quan quốc gia có can dự có bổn phận hơn trong việc tổ chức thực hành đồng bộ các biện pháp (trong đó có việc chỉ dẫn cụ thể các trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và việc nâng cao bổn phận khi giải quyết khiếu nại của công dân đối với thông tin của Tòa án về việc trả lại đơn khởi kiện…). Có như vậy, quyền đề nghị Tòa án bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp của mình của công dân mới được như các quyền căn bản khác của công dân là “…được quốc gia và tầng lớp nhấn, coi trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và luật pháp” (như quy định tại khoản 1 Điều 15 của Dự thảo).
Về việc bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà TANDTC
Tại khoản 7 Điều 75 và khoản 3 Điều 93 của Dự thảo có quy định mới về việc bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà Tòa án quần chúng. # vô thượng là: chủ toạ nước có nhiệm vụ và quyền hạn cứ vào quyết nghị của Quốc hội, bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà Tòa án quần chúng. # vô thượng - Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn ưng chuẩn việc bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà Tòa án quần chúng. # vô thượng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (khoản 8 Điều 103) và của Pháp lệnh về quan toà và Hội thẩm Tòa án quần chúng. # năm 2002 (Điều 26) thì chủ toạ nước có nhiệm vụ, quyền hạn bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà Tòa án quần chúng. # vô thượng - Việc bổ dụng, miễn nhiệm, cất chức quan toà Tòa án quần chúng. # vô thượng trên cơ sở yêu cầu của Hội đồng tuyển Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao (Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao gồm có Chánh án Tòa án dân chúng tối cao làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương chiến trường đất nước Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương Hội Luật gia Việt Nam là ủy viên).
Ngày 14/1/2012, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trao Quyết định bổ dụng chức danh Thẩm phán TANDTC cho 17 thẩm phán
Trong nhiều năm qua, việc bổ dụng, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao đều được thực hiện đúng quy định nêu trên và về cơ bản, đội ngũ Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, cả về số lượng, chất lượng và phẩm chất đạo đức (điều này được khẳng định qua thưa tổng kết công tác hàng năm của Chánh án Tòa án dân chúng tối cao trước Quốc hội).
Quy định của Dự thảo về việc khẳng định Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2 của Dự thảo) là hoàn toàn hiệp. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 75 của Dự thảo thì Quốc hội - cơ quan lập pháp - đã có nhiều nhiệm vụ và quyền hạn trong việc phối hợp, kiểm soát đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án dân chúng - cơ quan thực hiện quyền tư pháp (như quy định tại khoản 1 Điều 107 của Dự thảo), cụ thể như: Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội (bao gồm giám sát tối cao đối với hoạt động xét xử của Tòa án); Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương (trong đó có phân bổ ngân sách dành cho hoạt động của Tòa án dân chúng); Quốc hội quy định tổ chức, hoạt động của Tòa án dân chúng; Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước (người có quyền bổ dụng, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao); Quốc hội xét thưa công tác của Chủ tịch nước và xét thưa của Chánh án Tòa án dân chúng tối cao…
Như vậy, nếu quy định thêm nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội là Ra nghị quyết bổ dụng, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao - phê duyệt việc bổ dụng, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án dân chúng tối cao thì có thể sẽ ảnh hưởng đến sự độc lập của hoạt động xét xử của Tòa án dân chúng – cơ quan thực hiện quyền tư pháp (vì như vậy là Quốc hội vừa quyết định về tổ chức, hoạt động và kinh phí hoạt động của Tòa án dân chúng, giám sát tối cao đối với hoạt động của Tòa án dân chúng, lại vừa quyết định cụ thể cả về từng nhân sự mấu chốt trong hoạt động xét xử của Tòa án dân chúng).
Nguyễn Như Bích(Nguyên Phó Chánh án TANDTC)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét